Results (
English) 2:
[Copy]Copied!
I. Cơ sở lý thuyết
Thế nào là độc quyền?
Một công ti được gọi là độc quyền nếu nó là công ti duy nhất bán một sản phẩm và sản phẩm đó không có mặt hang để thay thế.
Đặc điểm của thị trường độc quyền:
- Thứ nhất: Chỉ có một người bán nhưng có rất nhiều người mua.
- Thứ 2: Sản xuất sản phẩm riêng biệt, không có sản phẩm để thay thế
- Thứ 3: Doanh nghiệp độc quyền là người quyết định giá cho sản phẩm của mình, trong thời gian ngắn hạn doanh nghiệp độc quyền có thể điều chỉnh giá cả và sản lượng mặt hang của mình để phù hợp với kinh tế thị trường.
- Thứ 4: có rào cản trong việc gia nhập ngành, khó có thể tham gia hoặc thu hồi vốn
NHỮNG HÀNG RÀO NGĂN CẢN SỰ GIA NHẬP NGÀNH LÀ NGUỒN GỐC CỦA ĐỘC QUYỀN.
Những rào cản đó là:
- Chi phí sản xuất: những doanh nghiệp lớn có khả năng loại trừ những doanh nghiệp khác ra khỏi ngành bằng cách cắt giảm giá (mà vẫn có thể thu được lợi nhuận), từ đó tạo ra thế độc quyền cho mình. Một khi vị thế độc quyền được thiết lập, sự gia nhập ngành của các doanh nghiệp khác sẽ rất khó khăn, bởi vì những doanh nghiệp mới thường sản xuất ở mức sản lượng thấp và như vậy phải chịu chi phí (trung bình) cao. Những doanh nghiệp này sẽ dễ dàng bị nhà độc quyền loại khỏi thị trường bằng cách giảm giá.( Sự độc quyền hình thành từ con đường cạnh tranh bằng chi phí như vậy được gọi là độc quyền tự nhiên.)
- Pháp lý: pháp luật tạo ra sự độc quyền bằng cách bảo hộ. Pháp luật bảo hộ bằng phát minh, sang chế (Bằng phát minh, sáng chế được pháp luật bảo vệ là một trong những nguyên nhân tạo ra độc quyền vì luật bảo hộ bằng sáng chế chỉ cho phép một nhà sản xuất sản xuất mặt hàng vừa được phát minh và do vậy họ trở thành nhà độc quyền) và pháp luật bảo hộ những ngành có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia (Các ngành công nghiệp công ích như điện, nước, thông tin liên lạc, một số kênh phát thanh, truyền hình, v.v. sẽ được bảo hộ hay độc quyền bởi nhà nước vì chúng có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc gia.)
- Xu thế sáp nhập của các công ti lớn: làm cho các doanh nghiệp áp lực vì phải tìm kiếm khách hàng (Việc sáp nhập của các công ty sẽ giúp mở rộng thị trường cho từng công ty. Các công ty, sau khi sáp nhập, sẽ tận dụng được mạng lưới phân phối có sẵn của mình và của cả những công ty trong liên minh để nâng cao thị phần của mình và chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, việc sáp nhập có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thu tóm thị trường và hình thành vị thế độc quyền). Ngoài ra sáp nhập còn làm giảm chi phí sản xuất-kinh doanh cho doanh nghiệp (Giảm chi phí sản xuất - kinh doanh. Việc sáp nhập sẽ làm mở rộng thị trường của các doanh nghiệp nên có thể làm tăng quy mô sản xuất cho từng doanh nghiệp. Điều này có thể tạo ra tính kinh tế nhờ quy mô của quá trình sản xuất. Do vậy, sự sáp nhập có thể giúp doanh nghiệp sử dụng tài nguyền về nhân lực, tiền của, v.v. có hiệu quả hơn.)
- Tình trạng kém phát triển của thị trường: Sự kém phát triển của thị trường sẽ dẫn đến hàng hoá không được lưu thông một cách thông suốt. Do hàng hoá không lưu thông tốt trên thị trường cho nên nhà cung ứng nào có điều kiện cung ứng hàng hoá cho một thị trường nào đó mà các nhà cung ứng khác không thể với tới thì sẽ trở thành độc quyền trên thị trường đó. Đây là hình thức độc quyền có tính cục bộ và xảy ra ở quy mô nhỏ. Sự độc quyền như vậy thường xuất hiện ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hay hải đảo, v.v. .
Các hình thức độc quyền:
- Độc quyền tự nhiên: Loại này xuất hiện khi có những nghành càng mở rộng qui mô càng có hiệu quả, chi phí trung bình càng giảm. Do đó chỉ có một xí nghiệp hoật động là có hiệu quả tạo ra độc quyền tự nhiên .
- Độc quyền thường là loại độc quyền mà nguyên nhân xuất hiện của nó là do nó độc quyền về tài nguyên chiến lược, do luật định hay độc quyền về bằng phát minh sáng chế.
- Độc quyền bán và độc quyền mua:
KẾT LUẬN : Nhà độc quyền sẽ có được lợi ích kinh tế cao hơn chi phí trung bình
II. Giải quyết tình huống:
Câu hỏi mà bạn đưa ra cho nhóm chúng tôi là “Ai là nhà độc quyền của Việt Nam. Phân tích chi phí phúc lợi của nó”.
độc quyền hiện nay ở Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà nước, các công ty tư nhân chưa có khả năng và tiềm lực kinh tế để chiếm vị trí thống lĩnh hay độc quyền trong các ngành kinh tế chính. Chính phủ đã cho thành lập một loạt các tổng công ty và tập đoàn kinh doanh độc quyền như Bưu chính viễn thông, Dầu khí, Dệt may, Hoá chất, Than, Thép, Ximăng v.v…
Trong đó có điện lực:
Nguồn cung điện tại Việt Nam để có thể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Thị trường phát điện tại việt nam là các công ti nhà nước như tập đoàn điện lực Việt Nam(EVN), PVN(Tập đoàn Dầu khí Việt Nam), Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam( VINACOMIN),…
Đến năm 2010 thị trường Điện tại Việt Nam vẫn ở dang độc quyền cao với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) Một công ty Nhà nước, chiếm 74% lượng điện sản xuất, chiếm toàn bộ khâu truyền tải và vận hành hệ thống điện, phân phối và kinh doanh bán lẻ điện.
Chi phí phúc lợi của ngành điện:
- Mặt tích cực:
+ Nhà nước không quy định độc quyền về giá mua, giá bán và sẽ bù lỗ cho ngành điện để giá thành bán cho người dân không cao.
+ nhà nước độc quyền trong hoạt động chuyển tải, điều động hệ thống điện lưới quốc gia. Vì vậy Chính Phủ dễ dàng chăm lo đời sống nhân dân, nhất là những vùng dân cư chưa có điện
+ Giúp mọi người làm tốt công việc, sinh hoạt dễ dàng, sản xuất đạt hiệu quả. Góp phần tăng thu nhập cho từng cá nhân, nâng cao dân trí.
Ví dụ: tất cả đường phố trên địa bàn Hồ Chí Minh đều có đèn đường tỏa sáng, đa số tại ngã đường đều có tín hiệu đèn giao thông giúp cho người dân lưu thông dễ dàng, hạn chế xảy ra tai nạn.
- Mặt tiêu cực:
+ Hệ thống đường dây tải điện đến vùng nông thôn chưa đáp ứng hết, có một vài hộ gia đình tự câu đường dây tải sử dụng chung với hộ đã mắc điện nhà nước và phải trả với giá cao gấp 2 – 3 lần giá nhà nước. Hoặc hộ gia đình tự mua máy phát điện để phục vụ nhu cầu riêng với chi phí phải trả rất cao
+ ngành điện luôn lấy lý do vì không có vốn, kinh doanh bán điện cho khu vực nông thôn lỗ nặng nên đã không đầu tư thỏa đáng, chưa có sự ưu tiên cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu điện trầm trọng, ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống của khu vực nông thôn.
III. Kết luận:
Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở tình trạng khan hiếm điện. Khác với xăng dầu là cái có thể nhập khẩu tùy ý để cân bằng cung cầu, điện là mặt hàng đặt biệt và Việt Nam phải dựa chủ yếu vào năng lực sản xuất điện trong nước. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đầu tư thích đáng cho việc xây dựng và phát triển ngành Điện.
Being translated, please wait..
